A la hán là gì?
là thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ những người đã đạt được pháp quả, tức là đã hoàn toàn giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi nhờ tu tập. Họ được xem là hiện thân của trí tuệ và lòng từ bi, được kính trọng vì đã đạt đến trạng thái cao nhất của sự giác ngộ. Họ đã loại bỏ hết mọi khổ đau và mê lầm trong đời sống và được coi là những người tu hành xuất sắc nhất trong Phật giáo Tiểu thừa.
Có thể nói, A la hán là những người đã vượt qua mọi phiền não, không còn bị chi phối bởi những dục vọng và khổ đau của thế gian. Họ đã đạt được niết bàn, trạng thái giải thoát hoàn toàn. Trong tiếng Phạn, “Arhat” có nghĩa là “người xứng đáng” hoặc “người đã chiến thắng”, chỉ ra rằng họ đã chiến thắng mọi cám dỗ và thoát khỏi mọi khổ đau của thế gian.
Trong Phật giáo đại thừa, A la hán cũng được coi là những người có trạng thái giác ngộ cao nhất trong hệ thống bậc thang giác ngộ, nhưng được coi là chưa hoàn toàn tối cao vô thượng, mà chỉ là đạt đến trạng thái bậc thang cao nhất của người tu hành trong pháp môn này.
: Thân bền chắc không gì có thể làm hư hoại được, cũng không tự hư hoại theo thời gian. Đây là cách nói để ví với thân Phật.
Thế tôn: Người được thế gian tôn kính, cũng là bậc tối thắng trong thế giới, 1 trong 10 tôn hiệu của đức Như lai.
Thân kim cang: Thân bền chắc không gì có thể làm hư hoại được, cũng không tự hư hoại theo thời gian. Đây là cách nói để ví với thân Phật.
Vô thường có nghĩa là mọi sự đều thay đổi, không có sự vật nào bất biến trong hai thời điểm nối tiếp nhau. Vì nó thay đổi mỗi phút giây, nên chúng ta không thể mô tả một cách chính xác là lúc này nó giống hay khác với lúc trước đây.
Khẩu chứng vô bằng: Lời nói ở miệng ra không có gì để làm bằng chứng, không thể tin là thực được.
Lễ trà tỳ: được hiểu là nghi thức hỏa thiêu nhục thân của một vị Phật hay cao tăng Phật giáo.
Phù vân: đám mây thoáng nổi lên rồi tan ngay, thường dùng để ví cái không lâu bền, có được rồi lại mất ngay.
Tam Luân: ba cột trụ tạo thành phương thức tu đạo bồ tát thực tế nhất trong cuộc sống này, Hàm Dung, Bao Dung, Viên Dung.
Hàm Dung: Quan hệ với chính mình, mở rộng tấm lòng ra cho rộng rãi, cho không khoáng, lúc nào cũng cởi mở.
Bao Dung: Quan hệ giữa mình với người, mình nên sống với hiện tại mà không nghĩ tới quá khứ của người khác. Khi ta làm việc với người, sống với người mà tâm mình không rộng đủ thì chỉ khiến cho họ nghẹt thở mà thôi.
Viên dung: Quan hệ đối với công việc, với cách xử thế trong đời, ta nên theo một quy luật, một tiến trình tuần tự, lúc nào làm, lúc nào không nên làm, lúc nào nói và lúc nào không nên nói, cái nào nên làm nhiều, cái nào nên làm ít.